Ngày
22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. 70 năm qua, thực hiện tư tưởng quân sự của Người trong Chỉ thị, Quân đội
nhân dân Việt Nam đã luôn bồi đắp bản chất cách mạng, trưởng thành, lớn mạnh,
cùng toàn dân tộc chiến đấu và chiến thắng vẻ vang trong chiến tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là một văn kiện chỉ đạo thành lập lực
lượng vũ trang cách mạng, Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân đã đề cập đến nhiều vấn đề có tầm tư tưởng, quan điểm về phương thức
xây dựng, phát triển lực lượng, về động viên và sử dụng sức mạnh của chiến
tranh nhân dân, về phương thức tác chiến, phương châm hoạt động quân sự… Trong
đó, tuyên truyền được coi trọng.
Nhiều
tài liệu đã nói rõ việc sau khi nhận được kế hoạch thành lập tổ chức vũ trang,
với tên gọi “Việt Nam Giải phóng quân” do đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí
Lê Quảng Ba chuẩn bị, Chủ tịch Chí Minh đã thêm cụm từ “Tuyên truyền” để thành
“Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân”. Trong Chỉ thị, Người chỉ rõ: Đội
Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó
là đội tuyên truyền.
1. Nó là
đội tuyên truyền, trước hết đội quân đó phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân phát huy lòng yêu nước, ý chí quật
cường, tin theo Đảng, ủng hộ và tin theo cách mạng, sẵn sàng đứng dậy, cầm vũ
khí chống lại kẻ thù, thực hiện vũ trang toàn dân, đánh địch toàn diện; xây dựng
lực lượng chính trị đông đảo, lấy thế mạnh toàn diện bù vào lực yếu cục bộ; kết
hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, trong đó sức mạnh
chính trị là nền tảng, sức mạnh quân sự là nòng cốt. Lấy tuyên truyền làm chức
năng, nhiệm vụ của đội quân cách mạng là sự quán triệt và triển khai thực hiện
phương thức huy động sức mạnh của cả nước, quy tụ, tạo ra và sử dụng sức mạnh
tổng hợp trong đấu tranh cách mạng nói chung và trong chiến tranh cách mạng nói
riêng. “Đó là tư tưởng quân sự - chính trị, không bao giờ là quân sự đơn thuần ”
[1],
là chính trị trọng hơn quân sự của tư tưởng Hồ Chí Minh được cụ thể hóa. Không
nên chỉ hiểu “Đội tuyên truyền ” là đi giải thích đường lối, chính sách của
Đảng và Mặt trận, mà tất cả những hoạt động quân sự cách mạng của Đội Việt Nam
giải phóng quân chính là hoạt động tuyên truyền thiết thực nhất. Hàm ý trên trong
Chỉ thị càng sáng rõ hơn khi gắn với chỉ thị của Hồ Chủ tịch cho Đại tướng Võ
Nguyên Giáp rằng: Sau một tháng thành lập phải có trận thắng.
Các nhà lý
luận Mác – lênin đã từng có những luận điểm nổi tiếng về “Vũ trang toàn dân”,
“Vũ trang cho toàn thể giai cấp công nhân”, “Các lực lượng vũ trang và bán vũ
trang quần chúng”. Ph.¡ngghen
®· viÕt: “Một dân tộc muốn giành độc lập
cho mình không được tự giới hạn trong hình thức của chiến tranh thông thường,
khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp mọi nơi, đó
là phương thức duy nhất, nhờ đó mà một dân tộc có thể chiến thắng một dân tộc
lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đương đầu với quân đội mạnh hơn và có
tổ chức tốt hơn”.[2]
Ngay từ năm 1926, trong thư gửi Hội Vạn quốc, Nguyễn Ái
Quốc đã nhận thấy, tự hào về truyền thống, nguồn gốc, phương thức đấu tranh
quân sự của dân tôc ta, Ngườì cho rằng: Mặt khác, các bạn nghĩ xem, nước Việt
Nam trước khi bị Pháp chiếm là như thế nào? Đó là một nước độc lập, biết khiến
các nước láng giềng kính trọng trong khi vẫn chẳng sợ chiến tranh và nghĩa vụ
quân sự, trong khi để bảo vệ đất nước chỉ dùng đến dân binh[3].
Trong
lịch sử dân tộc, các cuộc khởi nghĩa lật đổ chính quyền đô hộ của ngoại xâm,
giành độc lập dân tộc đều được bắt đầu bằng việc dựng cờ tụ nghĩa, dần dần phát
triển lực lượng từ không đến có, từ yếu đến mạnh, giành thắng lợi từng phần,
tiến lên giành thắng lợi toàn bộ. Bài học về xây dựng lực lượng vũ trang,
khuếch trương thanh thế, tạo dựng thế trận lòng dân luôn được cha ông ta vận dụng sáng tạo. Từ cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống quân xâm lược Hán (Năm 40), khởi nghĩa Phùng Hưng
chống quân xâm lược Đưởng (Năm 770), khởi nghĩa Lam Sơn chống quân xâm lược
Minh (Năm1418)…đều theo phương thức xây dựng, phát triển lực lượng, tiến hành
đấu tranh quân sự ấy. Giáo sư Phan Huy Lê cho rằng: “Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ những cuộc kháng chiến thành công từ xa
xưa đến gần đây đều là chiên tranh nhân dân yêu nước, kết hợp giữa vai trò của
quân chủ lực nhà nước với sự tham gia rộng lớn của các tầng lớp nhân dân, của
cả dân tộc, phát huy tất cả sức mạnh tinh thần và vật chất của đất nước. Ngược
lại, những cuộc kháng chiến thất bại, nguyên nhân chủ yếu là, hoặc chỉ
đơn thuần dựa vào quân đội, dựa vào thành lũy hoặc để mất lòng dân ”[4].
Ngay
sau khi thành lập, bằng thắng lợi ở Phay Khắt, Nà Ngần, Đội Việt Nam Tuyên
truyền giải phóng quân đã tạo niềm tin cho nhân dân vào sự nghệp cách mạng, vào
lực lượng vũ trang non trẻ của một dân tộc dù bị bóc lột, tước đoạt đến tận
xương tủy, nhưng khi biết đoàn kết vẫn có thể chiến thắng đội quân chiếm đóng của
thực dân, phát xit và bọn tay sai được trang bị và huấn luyện đầy đủ. Sau ngày
Nhật đảo chính Pháp (09/3/1945), Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã
xâm nhập vào vùng địch kiểm soát, vận động quần chúng, tổ chức cơ sở chính trị,
xây dựng lực lượng tự vệ chiến đấu, đào tạo cán bộ cốt cán; chia làm nhiều mũi
hoạt động quân sự ở Bắc Cạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên. Và sau
khi được hợp nhất với Cứu quốc quân và một số đội du kích thành Việt Nam Giải
phóng quân, theo Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa, Việt Nam giải phóng quân
đã tiến công các vị trí yết hầu, bàn đạp, nhanh chóng tạo ra thanh thế, hiệu
ứng mạnh mẽ cho cao trào đấu tranh chính trị, khí thế vùng dậy ngút trời của
quần chúng, tạo uy thế áp đảo quân thù, giành thắng lợi nhanh, gọn trong Cách
mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong
chiến tranh giải phóng dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam đã luôn bám đất, bám dân, phối
hợp các lực lượng chiến đấu. Những chiến thắng, nhất là những trận đầu đã hạ uy
danh, “huyền thoại” sức mạnh vô địch của kẻ thù, làm nức lòng nhân dân, củng cố
niềm tin, ý chí quyết đánh và quyết thắng của quần chúng ở vùng địch tạm chiếm,
vùng tự do, vùng địch hậu. Phong trào du kích, rào làng kháng chiến, tự giác
tham gia dân công hỏa tuyến phục vụ chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp; tạo
vành đai diệt Mỹ, kết hợp tiến công và nổi dậy trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nhờ đó mà đã phát huy sức mạnh toàn dân tộc chiến thắng đế quốc, tay sai.
2.
Từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chức năng, nhiệm vụ tuyên
truyền của Quân đội ngày càng được củng cố, phát triển. Đội tuyên truyền trước
đây và đội quân công tác ngày nay đã trở thành bản chất truyền thống của Quân
đội, đã và đang là định hướng nhiệm vụ chính trị. Đồng thời đặt ra mục đích, yêu
cầu xây dựng, củng cố mối quan hệ giữa Quân đội với nhân dân và công tác dân
vận, nhằm hướng đến đối tượng, nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác tuyên truyền;
và cần được quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, khoa học, chặt chẽ với
tầm mức cao hơn.
Quán
triệt tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về đội truyền truyền của Quân đội, cần tập
trung giáo dục, quán triệt sâu sắc cho các lực lượng, nhất là đối với đội ngũ
cán bộ về mục đích, ý nghĩa của công tác dân vận. Trong đó, nhấn mạnh vai trò
công tác dân vận là thực hiện chức năng đội quân công tác của Đảng, là trực
tiếp xây dựng thế trận lòng dân trong sự nghiệp quốc phòng toàn dân, chiến
tranh nhân dân. Làm tốt công tác dân vận là góp phần trực tiếp chuẩn bị tiềm
lực, quy tụ, tập hợp, động viên sức mạnh của dân tộc vào công cuộc giữ nước,
xây dựng Quân đội. Thời bình nhân dân cùng lực lượng vũ trang, Quân đội chung
tay xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng, xây dựng nông thôn mới trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Khi có chiến tranh,
nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, tự giác cung cấp sức người, sức của, tham gia phối
hợp ba thứ quân, tạo thế trận cả nước đánh giặc. Vì vậy, công tác dân vận không
chỉ là vì dân, mà thực chất còn vì chính sự nghiệp xây dựng, trưởng thành, cội
nguồn chiến thắng của Quân đội, bởi “Bộ đội được dân yêu, dân tin, dân phục thì
nhất định giành thắng lợi”[5]. Phải
làm sâu sắc hơn ý nghĩa của tình quân dân cá nước. Công tác dân vận phải cùng nhân
dân trên địa bàn đấu tranh làm thất bại những mưu toan cổ xúy cho tư tưởng quân
sự đơn thuần, không kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ, bảo vệ và xây dựng trong
tình hình mới.
Trong
chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, Quân đội đã bằng kết quả, thành
tích trong xây dựng, chiến đấu để nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Ngày nay, niềm
tin vào chế độ, vào sự nghệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, vào tiền đồ dân tộc
của Nhân dân sẽ được củng cố, nâng cao khi chúng ta có Quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; luôn là lực lượng chính trị, lực
lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước, Nhân dân, thường xuyên nâng cao
chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi; đủ sức làm
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc khi có chiến tranh; giữ vững môi trường hòa
bình ổn định, đẩy lùi và ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ trong thời bình. Đó là thực hiện tốt “Hiếu với dân”. Theo ý nghĩa đó,
công tác dân vận, bên cạnh việc tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển
kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn đóng quân, cần tăng
cưởng tuyên truyền về bản chất truyền thống, kết quả, thành tích xây dựng và trưởng
thành của Quân đội.
Nhân
dân quan tâm, biết đến Quân đội bằng nhiều cách khác nhau, nhưng hình ảnh trực
quan về những đơn vị, quân nhân qua trực tiếp tiếp xúc đóng vai trò rất quan
trọng. Vì vậy, để tiến hành có hiệu quả công tác dân vận, cần giáo dục, quán
triệt tốt việc giữ gìn, phát huy bản chất, truyền thống Quân đội của từng đơn
vị, quân nhân. Toàn quân thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống,
cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Phải làm cho hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ
luôn tỏa sáng trong lòng Nhân dân. Thông qua những việc làm cụ thể, giàu ý
nghĩa để củng cố niềm tin của Nhân dân vào Quân đội nhân dân, đó thực sự đội
quân là của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, dù học tập, công tác tại đơn vị hay
hành quân, huấn luyện dã ngoại, làm công tác dân vận đều phải duy trì nghiêm kỷ
luật, giữ đúng lễ tiết, tác phong, phát ngôn khi tiếp xúc với Nhân dân. Phải
luôn ý thức bảo vệ, tạo sức lan tỏa về danh dự quân nhân, phẩm chất chính trị,
đạo đức lối sống, năng lực công tác của cán bộ, chiến sĩ.
Tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh về đội tuyên truyền của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân là sự kế thừa truyền thống, tinh hoa quân sự của dân tộc, sự vận
dụng sáng tạo lý luận quân sự Mác-Lênin vào thực tiễn. Nó đã góp phần sản sinh
ra Quân đội có nhiều chức năng, vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân sản
xuất và đội quân công tác; góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quôc, với lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh về đội tuyên truyền của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân luôn luôn là kim chỉ nam, phương châm xây dựng Quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; luôn luôn là định hướng nhiệm vụ chính
trị công tác dân vận của Quân đội ta.
[1] Võ
Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 190.
[2] Ph. Angghen:
Bàn về chiến tranh nhân dân, Bản tiếng Việt, Nxb Sự thật, Hà Nội 1978,
tr43
[3]
Bùi Phan Kỳ chủ biên: Về học thuyết quân
sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội,
2013, tr 259
[4]
Phan Huy Lê: Nghiên cứu học thuyết quân sự Việt Nam phải đặt trong tiến trình
lịch sử văn hóa Việt Nam với những đặc điểm cụ thể của nó, Tìm hiểu học thuyết quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 1997, tr100
[5] Hồ Chí
Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
quốc gia, H.2000, tr.480
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét